Hợp đồng vay tiền là một dạng giao dịch phổ biến trong nhân dân.
1/. Thực tiễn cho thấy việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tiền có nhiều vướng mắc trong việc tính lãi suất và lãi nợ quá hạn do có những quy định về lãi suất trong Bộ luật dân sự 2005 đã lạc hậu so với thực tế, có điều luật không được trình bày chặt chẽ, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
2/. Hợp đồng vay tiền có 4 loại:
- Vay có lãi có kỳ hạn,
- Vay có lãi không kỳ hạn,
- Vay không lãi có kỳ hạn và
- Vay không lãi không kỳ hạn.
3/. Đối với mỗi loại hợp đồng nêu trên thì luật lại quy định khác nhau về đường lối giải quyết, về thời hạn trả nợ, về lãi ….
3.1/. Hợp đồng vay có lãi, có kỳ hạn
* Theo quy định tại khoản 2 Điều 478 BLDS, trong trường hợp này “bên vay có quyền trả tài sản trước kỳ hạn, nhưng phải trả toàn bộ lãi theo kỳ hạn, nếu không có thoả thuận khác”.
* Điều 474 khoản 5 cũng quy định: “trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ, thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ”.
* Căn cứ vào những quy định trên, nếu có tranh chấp hợp đồng vay tài sản có thời hạn có lãi suất, bên vay phải trả: gốc + lãi trên nợ gốc (lãi trong hạn) + lãi nợ quá hạn, trong đó:
- Phần gốc: Là khoản tiền hoặc tài sản mà bên cho vay đã cho bên vay vay.
- Lãi trên nợ gốc: Về nguyên tắc, tiền lãi chỉ được tính trên số nợ gốc, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 476 lãi suất để tính tiền lãi trên nợ gốc “không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Do vậy cần phải xác định mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm giao kết hợp đồng đối với loại cho vay nào: ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn để có căn cứ xác định lãi suất cơ bản đối với loại cho vay đó.
Trong trường hợp hai bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ mức lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ (khoản 2 Điều 476 BLDS).
Thời điểm trả nợ được xác định là thời điểm xét xử sơ thẩm. Như vậy các quy định về tính lãi suất theo BLDS năm 2005 đều dựa trên lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.
Thực tế cho thấy mức lãi suất này không theo kịp lãi suất thực diễn ra trên thị trường, sắp tới khi Nhà nước không điều hành lãi suất theo cơ chế công bố lãi suất cơ bản như từ trước tới nay thì việc tìm kiếm một loại lãi suất phù hợp để làm căn cứ cho việc xác định lãi suất trong các hợp đồng vay tài sản là một vấn đề cần đặt ra cho các nhà làm luật.
- Lãi nợ quá hạn: Khoản 2 Điều 305 BLDS quy định: “trong trường hợp người có nghĩa vụ chậm trả tiền, thì người đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Theo khoản 5 Điều 474 BLDS thì “lãi nợ quá hạn được tính theo lãi suất cơ bản”. Quy định không chặt chẽ này gây nhiều cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng pháp luật.
+ Quan điểm 1 cho rằng: lãi suất quá hạn = 150% lãi suất trong hạn.
+ Quan điểm 2 cho rằng: lãi suất quá hạn = 150% lãi suất cơ bản.
+ Quan điểm 3 cho rằng: lãi suất quá hạn = lãi suất cơ bản.
Quan điểm thứ 3 phù hợp với khoản 5 Điều 474 BLDS hơn cả, hiện nay các Toà án xét xử theo quan điểm này.
Nhưng theo tôi việc áp dụng như vậy có điểm bất cập là không bảo vệ được quyền lợi của bên cho vay. Ví dụ: nếu lãi suất cơ bản là 1%, thì lãi suất trong hạn là 1,5% (1% x 150%), lãi suất quá hạn là 1%.
Như vậy không hợp lý vì nếu xét khía cạnh lãi quá hạn là hình thức phạt vi phạm thì phải cao hơn 1,5% hoặc đền bù thì phải = 1,5%.
2. Hợp đồng vay có lãi, không kỳ hạn.
Khi có tranh chấp, Toà án buộc người vay phải trả: nợ gốc + lãi trên nợ gốc tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm.
Trong trường hợp này, Toà án không phải tính lãi nợ quá hạn vì đây là hợp đồng vay không có kỳ hạn.
3. Hợp đồng vay không lãi, có kỳ hạn
* Nếu có tranh chấp, căn cứ vào khoản 1 Điều 478, khoản 2 Điều 305 BLDS, người vay phải trả: nợ gốc + lãi nợ quá hạn (không có lãi trên nợ gốc vì các bên không thoả thuận).
4. Hợp đồng vay không lãi, không kỳ hạn
* Theo quy định tại khoản 1 Điều 477 BLDS, trong hợp đồng này thì “bên vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước trong một thời gian hợp lý, nếu không có thoả thuận khác”.
Khi người vay không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên vay có quyền tự đòi hoặc khởi kiện ra toà án để buộc bên vay phải trả nợ cho mình. Khi giải quyết loại việc này, chỉ buộc bên cho vay phải trả nợ gốc.
Trần Thị Thu Hà – Phòng 5 VKSTP
Công ty Luật An Phú nhận tư vấn tại nhà, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, qua thư điện tử; Thù lao của Luật sư dựa vào sự đánh giá của khách hàng và hiệu quả công việc.
Mọi chi tiết xin liên hệ: Công ty Luật An Phú
Trụ sở chính: Phòng 315 tầng 3 Tòa nhà văn phòng Việt Anh, số 33 ngõ 142 đường Ngô Gia Tự, phường Việt Hưng, Long Biên, Hà Nội. Điện thoại: 04.625.707.13; Fax: 04.625.707.15;
Số cần gọi gấp: 0904 226 799- 09898.511.69
Email: luatanphu@gmail.com
Website: www.anphulaw.com
Văn phòng giao dịch 1: Khu phố Đền Rồng, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh: 01688.477.456
Văn phòng giao dịch 2: Số 236 phố Yết Kiêu, phường Hải Tân, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 098.44.33.061
Luật An Phú: Cam kết đem lại An vui, Thịnh vượng cho mọi khách hàng