HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.........
Tại phiên toà ngày 26-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thị Cúc sinh năm 1957; trú tại số 23 đường Lê Lợi, khu phố 04, phường 02, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; trình độ văn hoá lớp 12/12; khi phạm tội là Kế toán kho Công ty Dược và Vật tư y tế Tây Ninh; con ông Trần Văn Út (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thiện; có chồng đã ly hôn và 01 con 08 tuổi;
2. Nguyễn Thị Thanh Thuý sinh năm 1972; trú tại số 41/4 ấp Ninh Trung, xã Ninh Sơn, huyện Hoà Khánh, tỉnh Tây Ninh; khi phạm tội là thủ kho B Công ty Dược và Vật tư y tế Tây Ninh; con ông Nguyễn Minh Đường và bà Trần Thị Lan.
NHẬN THẤY:
Ngày 20-06-2000, qua kiểm tra kho thuốc do thủ kho Nguyễn Thị Thanh Thuý quản lý, phòng kế hoạch kinh doanh Công ty Dược và Vật tư y tế Tây Ninh phát hiện 03 mặt hàng thuốc kháng sinh là Ampiciline, Amocylline Cephalexine bị hao hụt với số lượng lớn. Các thùng chứa thuốc chỉ có thùng phía trên có thuốc, thùng phía dưới chứa các loại thuốc rẻ tiền hoặc thùng không.
Ngày 04-07-2000, Công ty tổ chức kiểm tra số thuốc nhập kho do thủ kho Nguyễn Thị Thanh Thuý quản lý từ tháng 01-1999 đến tháng 06-2000 xác định 06 loại thuốc kháng sinh bị hao hụt, cụ thể:
l Ampiciline 500mg hụt 6.108 vỉ trị giá 22.250.579 đồng
2. Tetracylline 500 mg hụt 100 vỉ trị giá 178.500 đồng.
3. Cephalexine 500mg hụt 10.654 vỉ trị giá 72.385.530 đồng
4. Amôxylline 500 mg hụt 10.747 vỉ trị giá 41.883.450 đồng
5. Lencomycine 500 mg hụt 45 vỉ trị giá 275.730 đồng
6. Erythromycine 500 mg hụt 225 vỉ trị giá 1.346.625 đồng
Tổng giá trị hao hụt là 138.320.414 đồng.
Ngoài ra, ngày 20-06-2000 và ngày 22-06-2000, Thúy còn mua thuốc ngoài trả nhập vào kho 1.200 vỉ Ampiciline và 840 vỉ Erythromycine trị giá 12.414.182 đồng.
Như vậy, tổng số thuốc hao hụt thực tế là 150.734.596 đồng, gia đình Thuý đã nộp đủ trong quá trình thanh tra.
Qua kiểm tra thể hiện trên các thẻ kho của thủ kho Thuý và thẻ kho của kế toán kho Nguyễn Thị Cúc đều có tẩy xoá sửa chữa số lớn thành số nhỏ, tẩy mất số hàng ngàn nhằm giảm số tiền, sửa số ở cuối kỳ, tăng số xuất giảm số tồn v.v... nhưng qua giám định các thẻ kho bị tẩy xoá, sửa chữa thì tại bản Kết luận Giám định số 1125/C21 (P7) ngày 04-06-2001 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an trả lời không xác định được chữ viết của ai trên các số bị tẩy sửa.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 164/ST-HS ngày 31-10-2001 Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm c khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1985; các điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Nguyễn Thị Thanh Thuý 03 năm tù về tội tham ô tài sản Xã hội chủ nghĩa.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1985; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Nguyễn Thị Cúc 03 năm tù về tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa.
Áp dụng Điều 42 Bộ luật Hình sự năm 1999 buộc hai bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cho Công ty Dược và Vật tư y tế Tây Ninh số thuốc bị chiếm đoạt trị giá 150.734.596 đồng (mỗi bị cáo chịu trách nhiệm 1/2 là 75.367.298 đồng).
Ghi nhận bị cáo Thuý đã bồi thường cho Công ty 150.734.596 đồng. Nên bị cáo Cúc có trách nhiệm hoàn trả cho bị cáo Thuý 75.367.298 đồng.
Ngày 05-11-2001, bị cáo Nguyễn Thị Thanh Thuý có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo và nộp tiền cho Công ty 75.367.298 đồng.
Ngày 12- 11-2001, bị cáo Nguyễn Thị Cúc có đơn kháng cáo không phạm tội tham ô mà phạm tội thiếu trách nhiệm và xin được hưởng án treo,không phải bồi thường.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 191/HSPT ngày 19-03-2002 Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm c khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1985 (điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm1999 đối với bị cáo Thuý), phạt mỗi bị cáo 03 năm tù về tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Tại Quyết định kháng nghị số 08/KSXXHS ngày 24-03-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ phần quyết định của Bản án hình sự phúc thẩm số 191/HSPT ngày 19-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về việc ’’Phạt Nguyễn Thị Cúc 3 năm tù về tội tham ô’’ và phần ’’Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật" để xét xử phúc thẩm lại theo hướng xử phạt Nguyễn Thị Cúc về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; giảm án cho bị cáo Cúc và giải quyết phần dân sự theo kháng cáo của các bị cáo cho đúng qui định của pháp luật
XÉT THẤY :
Nguyễn Thị Thanh Thuý thừa nhận lỡ lấy thuốc cho người khác mượn, nên đã tự sửa chữa thẻ kho, khi bị phát hiện đã mua thuốc ngoài nhập vào kho. Thuý viết thư xin Cúc cho mua thuốc bỏ vào kho, không được Cúc đồng ý. Thúy không có sự thông đồng với Cúc để chiếm đoạt tài sản. Thuý xin bồi thường và đã bồi thường toàn bộ giá trị tài sản bị thất thoát cho Công ty Dược và Vật tư y tế Tây Ninh, nên Toà án các cấp kết án Thuý về tội tham ô tài sản là đúng.
Nguyễn Thị Cúc là kế toán kho, Cúc khai: Thẻ kho mất tìm được ở Thuý, Thuý có nói là có mượn thuốc và xin mua bỏ vào kho. Cúc nhận có sửa thẻ kho khi cộng trừ sai số ở hàng đơn vị và ở hàng chục, khi sửa viết chồng lên hoặc ghi lại số đúng ở cột kề bên bằng mực đỏ. Anh Tòng (Trưởng phòng kinh doanh) khai: Thúy đã đến nhà nói lỡ cho người khác mượn thuốc, chị Quyết (Bí thư Đảng uỷ) khai: Thuý nói do hoàn cảnh gia đình khó khăn có nhờ đại lý ở Ninh Sơn bán thuốc lấy tiền chi tiêu. Chị Nhi (cung ứng) khai: Thấy Thúy nhiều lần đến sớm lục thẻ chị Cúc.
Như vậy, không có căn cứ kết luận Nguyễn Thị Cúc thông đồng với Nguyễn Thị Thanh Thuý để sửa thẻ kho chiếm đoạt tài sản, nhưng Nguyễn Thị Cúc là kế toán kho không những không kiểm tra sổ sách của thủ kho Thuý, mà còn không quản lý chặt chẽ thẻ kế toán kho, tạo điều kiện sơ hở cho Thuý sửa chữa thẻ kho chiếm đoạt tài sản có giá trị trên 150 triệu đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản Nhà nước.
Hành vi của Cúc có dấu hiệu của tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa được qui định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 1992 và quy định tại Điều 144 Bộ luật Hình sự năm 1999 chứ không phải là tội tham ô. Hậu quả vụ án đã được khắc phục, người chiếm đoạt là Nguyễn Thị Thanh Thúy đã tự nguyện bồi thường đầy đủ cho Công ty Dược và Vật tư y tế Tây Ninh. Mặt khác, sau khi có Bản án sơ thẩm, cả hai bị cáo đều có kháng cáo về phần bồi thường nhưng chưa được Toà án cấp phúc thẩm xem xét.
Vì các lẽ trên và căn cứ vào các Điều 254, 256 Bộ luật Tố tụng Hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ một phần Quyết định của Bản án hình sự phúc thẩm số 191/HSPT ngày 19-03-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về áp dụng điều luật, tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Cúc và phần quyết định về bồi thường thiệt hại ; để Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo hướng áp dụng Điều 144 Bộ luật Hình sự năm 1999, kết án Nguyễn Thị Cúc về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước và xem xét lại kháng cáo của cả hai bị cáo về phần bồi thường thiệt hại.
2. Các quyết định khác của Bản án hình sự phúc thẩm nói trên không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Lý do huỷ một phần Bản án phúc thẩm:
Không có căn cứ kết luận bị cáo phạm tội tham ô, hành vi của bị cáo có dấu hiệu của tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước. Bị cáo kháng cáo về phần bồi thường nhưng Toà án cấp phúc thẩm chưa xem xét
Mọi chi tiết xin liên hệ: Công ty Luật An Phú
Trụ sở chính: Phòng 315 tầng 3 Tòa nhà văn phòng Việt Anh, số 33 ngõ 94 đường Ngô Gia Tự, phường Việt Hưng, Long Biên, Hà Nội.
Điện thoại: 024.625.707.13; Fax: 024.625.707.15;
Email: luatanphu@gmail.com
Website: anphulaw.com
Văn phòng giao dịch: Khu phố Đền Rồng, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Số cần gọi gấp: 0904 226 799 - 09898.511.69 – 01688.477.456
Luật An Phú: Cam kết đem lại An vui, Thịnh vượng cho mọi khách hàng